
Lắp đặt rotor tại Nhà máy thủy điện Hòa Bình mở rộng - Ảnh: N.AN
Đơn vị triển khai thực hiện là Ban quản lý dự án Điện 1 cùng các nhà thầu đã triển khai thực hiện. Đây là cột mốc tiến độ quan trọng trong quá trình lắp đặt thiết bị và hoàn thiện tổ máy.
Trực tiếp giám sát quá trình hạ đặt rotor tại công trường có ông Đặng Hoàng An - chủ tịch hội đồng quản trị
Dự án dự kiến đưa vào hòa lưới tổ máy số 1 vào ngày 19-8 tới - Ảnh: N.AN
Tăng thêm công suất cho hệ thống điện quốc gia
Ông Phương chia sẻ việc xây dựng nhà máy thủy điện có nhiều khó khăn do có hàng nghìn chi tiết, cấu kiện, linh kiện.
Đặc biệt dự án Nhà máy thủy điện Hòa Bình mở rộng được đầu tư xây dựng trên cơ sở các nhà máy thủy điện hiện hữu, nên công tác thi công, nổ mìn, vận chuyển thiết bị nặng phải được giám sát chặt chẽ để giảm thiểu tối đa việc ảnh hưởng đến nhà máy hiện hữu, môi trường…
Đáng chú ý, năm 2021 dự án gặp vướng mắc khi xảy ra sạt trượt do điều kiện địa chất và gặp mưa lớn. Với yêu cầu của Thủ tướng, dự án phải dừng 11 tháng để rà soát, đánh giá kỹ lưỡng trước khi thi công trở lại vào tháng 10-2022, tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công.
Vì vậy ông Phương cho hay việc triển khai dự án cần giám sát chặt chẽ từng khâu, với đội ngũ nhân công lành nghề lắp đặt để kiểm soát, giảm thiểu rủi ro. Đến nay toàn bộ khâu thiết kế, thi công, xây dựng, lắp đặt, thiết bị cơ khí thủy công đều do nhà thầu trong nước chế tạo. Riêng thiết bị điện như rotor và máy phát là nhập khẩu.
Theo EVN, dự án Nhà áy thủy điện Hòa Bình mở rộng là công trình quan trọng quốc gia, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư. Dự án có quy mô 2 tổ máy, tổng công suất 480MW (2 x 240MW). Sản lượng phát điện trung bình hằng năm cung cấp khoảng 490 triệu kWh, với tổng mức đầu tư trên 9.220 tỉ đồng.
Là dự án thủy điện mở rộng có quy mô lớn nhất ở Việt Nam, ông Phương cho hay dự án khi đưa vào vận hành sẽ tăng khả năng công suất phủ đỉnh cho hệ thống điện quốc gia, nâng cao khả năng khai thác vận hành kinh tế của Nhà máy thủy điện Hòa Bình trong hệ thống.
Từ đó nâng cao khả năng điều tần, ổn định tần số của hệ thống điện quốc gia, góp phần giảm chi phí vận hành hệ thống điện; giảm cường độ làm việc của các tổ máy hiện hữu, qua đó kéo dài tuổi thọ của thiết bị, tiết kiệm chi phí bảo dưỡng, sửa chữa.
